Đề thi ĐH môn Văn số 5 |
Mr DUO here: Shar Loans together pleaase!
-------------------------------------------------------------------------
http://loans.soidiemchontruong.net/:Loans: Loans Studensin USA,Loans Cars in USA,Loans All
Click Here
Click here
Kết thúc kì thi Tốt nghiệp, mời mọi người trở lại với việc ôn luyện cho kì thi ĐH còn khó khăn hơn trăm bề. Sau đây là một đề thi thử ĐH mời mọi người thử sức:
I, Phần chung: ( 5 điểm):
Câu 1( 2 điểm): Anh/ chị hãy trình bày quan niệm sống mới mẻ của thi sĩ Xuân Diệu trong thi phẩm “ Vội vàng”.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Trong bài “ Tiếng hát con tàu”, Chế Lan Viên viết:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn
Hãy viết một bài văn nghị luận không quá 600 từ trình bày suy nghĩ của em về vai trò của quê hương trong cuộc đời mỗi con người.
II, Phần riêng: (5 điểm): Thí sinh học chương trình nào thì làm câu dành cho chương trình đó( câu 3a hoặc câu 3b).
Câu 3 a: Theo chương trình cơ bản:
Cảm nhận của anh/ chị về vẻ đẹp anh hùng cách mạng của nhân vật Tnú ( Rừng xà nu- Nguyễn Trung Thành) và nhân vật Việt ( Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi).
Câu 3 b: Theo chương trình nâng cao:
Cảm nhận của anh/ chị về bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt”- Lưu Quang Vũ.
…………………………… Hết ……………………………
B, Đáp án:
Học sinh có thể làm bằng những cách khác nhau nhưng phải có những ý chính sau đây:
I, Phần chung:
Câu 1:
- Thơ Xuân Diệu là tiếng thơ dào dạt của một tâm hồn trẻ lúc nào cũng thèm yêu, khát sống, say đắm cuộc đời, quyến luyến cảnh sắc trần gian, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ, tích cực.
- “ Vội vàng” là khúc hát mê say, yêu đời,là quan niệm sống mới mẻ của thi nhân.
- Bốn câu thơ đầu là thái độ của một kẻ muốn đoạt quyền tạo hoá, đoạt quyền Thượng đế: “ tắt nắng”, “ buộc gió” để tận hưởng sắc đẹp, hương vị của vườn trần.
- Ngay trong cách nhìn mùa xuân, Xuân Diệu đã để cho tiếng lòng tuôn chảy một cách tự nhiên:
+ Mùa xuân là thời xuân sắc nhất của tuổi trẻ.
+ Nhưng mùa xuân cũng là dấu hiệu bước đi của thời gian:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Tương ứng với sự ra đi của tuổi trẻ con người:
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất….
Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu xuất phát từ ý thức cuộc sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời sống cá thể vô cùng quý giá thiêng liêng vì vậy con người cần biết quý từng giây, từng phút của đời mình, biết làm cho khoảnh khắc đời mình đầy ý nghĩa. Điều này khác với thơ cổ điển( thường là chừng mực, kín đáo). Đoạn thơ về mùa xuân là một niềm yêu say đắm.
- Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu có nét mới, ông quan tâm nhất là chất lượng sống, sống sao cho “ đã đầy” nhất.
- Đoạn cuối là một cái nhìn mới mẻ: Cần phải sống vội vàng kẻo hoài phí tuổi xuân, thời gian. Cái tôi cảm xúc đã trở thành hành động:
Ta muốn riết...
Ta muốn say…
Ta muốn thâu….
Ta muốn cắn…
vừa biểu thị một quan niệm mới, vừa diễn tả được sự cuồng si của Xuân Diệu trước cuộc sống.
Câu 2:
* Giải thích:
- “ Cố hương” là quê cũ, nơi ta sinh ra, gắn bó thân thiết, có một tình cảm sâu đậm và vị trí lớn trong tâm hồn mỗi con người. Đây là quê hương mà ai cũng có.
- “ Bản sương giăng”, “đèo mây phủ”, “ nơi nao qua”: Có thể không phải nơi ta sinh ra mà là nơi ta sống trong một thời gian dài, có nhiều gắn bó, kỉ niệm. Những câu thơ đã khái quát được chiều sâu của quy luật tình cảm( Khi ta ở chỉ là nơi đất ở- Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn: mảnh đất khi ta ở chỉ là mảnh đất trên phương diện địa lí, nhưng khi ta đi xa, nơi ấy bỗng trở nên thân thương vì chứa đựng nhiều tình cảm, kỉ niệm vui buồn, không còn là mảnh đất vô tri vô giác…).
Như vậy, quê hương nào cũng là nơi ta gắn bó, có tình cảm chân thành.
* Suy nghĩ, bàn luận:
- Quê hương là nơi ta sinh ra, “nơi chôn rau cắt rốn”, nơi ta gắn bó suốt cả tuổi ấu thơ ăm ắp kỉ niệm. Quê hương này đã đem đến cho chúng ta:
+ Tình cảm ấm áp của gia đình, được sống gần gũi với những người thân thương.
+ Nhân cách chúng ta được nuôi dưỡng từ văn hoá, vẻ đẹp quê hương, tạo nên nét riêng trong con người của từng miền quê khác nhau.
+ Điểm tựa tinh thần, niềm tự hào của mỗi con người, và rất dễ chạm vào tình cảm sâu kín của con người.
- Quê hương là nơi ta gắn bó trong một khoảng thời gian dài do công việc mưu sinh, do hoạt động cách mạng, tham gia kháng chiến, nơi lập nghiệp- đất lành chim đậu…Quê hương này cho chúng ta biết:
+ Sự trưởng thành từ cuộc sống, giúp ta thực hiện được lí tưởng, hoài bão.
+ Được sống hoà mình trong một không gian rộng lớn, hoà mình với cộng đồng…
- Bổn phận, trách nhiệm của mỗi con người đối với quê hương:
+ Yêu quý, gắn bó với quê hương, cho dù đó là miền quê nào.
+ Học tập, rèn luyện, phấn đấu xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
II, Phần riêng:
Câu 3 a:
- Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi là hai nhà văn của người nông dân Miền Nam trong kháng chiến chống Mĩ. “ Rừng xà nu” và “ Những đứa con trong gia đình’ là những truyện ngắn tiêu biểu của văn học cách mạng Việt Nam 45- 75, mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- Qua hai thiên truyện, tác giả đã giúp người đọc khám phá, khâm phục, tự hào trước vẻ đẹp anh hùng cách mạng của những con người bình thường, giản dị mà anh dũng, kiên cường và rất mực trung thành thuỷ chung với cách mạng.
- Vẻ đẹp anh hùng cách mạng là vẻ đẹp của những con người sớm được giác ngộ lí tưởng, gan dạ, trung thực, sẵn sàng “ quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.
- Tnú và Việt là những đứa trẻ sớm mất cha, mất mẹ; sinh ra trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh; quê hương đầy bóng giặc; cuộc sống tăm tối, lầm than….Hai con người ấy vượt lên hoàn cảnh riêng, thi đua lập chiến công, thi đua góp sức mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc.
- Biểu hiện của vẻ đẹp anh hùng ở họ:
+ Gắn bó với quê hương, làng bản: Với Việt sau mỗi lần tỉnh khi bị thương nặng ở chiến trường là những kí ức đẹp đẽ của một tuổi thơ trong trẻo rong ruổi khắp đồng ruộng, kênh rạch để câu cá bắn chim. Với Tnú là thời khắc trở về sau ba năm đi lực lượng, anh hồi hộp khi nghe tiếng chày giã gạo. Dù đã rửa chân ở đầu suối nhưng khi ra máng nước đầu làng anh vẫn xúc động để cho vòi nước của làng mình dội lên khắp người như ngày trước.
+ Gan góc dũng cảm, táo bạo mạnh mẽ, có mối thù sâu sắc với quân giặc: Với Tnú là khi học chữ Cụ Hồ, là tuổi thơ làm liên lạc, là khi nhảy ra cứu vợ con và khi bị quân địch tẩm nhựa xà nu đốt mười đầu ngón tay, hai bàn tay không còn lành lặn vẫn trở thành anh chiến sĩ giải phóng quân. Quân thù giết hại dân bản, tàn sát vợ con và biến anh thành người tàn tật suốt đời. Còn Việt, dù bé tí đã dám xông thẳng vào thằng giặc giết hại cha mình, nằng nặc đòi đi tòng quân để trả thù cho ba má. Khi xông trận Việt chiến đấu hết mình, khi bị trọng thương nằm lại ở chiến trường vẫn trong tư thế chờ tiêu diệt giặc.
+ Cùng lập được nhiều chiến công trên trận tuyến đánh quân thù. Tnú đã bóp chết tên quan hai khi hắn đang cố thủ trong hầm và đôi bàn tay cụt đốt của anh còn giết được nhiều thằng Dục khác nữa. Việt đã tiêu diệt được một xe tăng địch trong một trận đánh giáp lá cà.
- Tnú và Việt là hai nhật vật mang ý nghĩa biểu tượng cho tuổi trẻ Miền Nam nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung trong kháng chiến chống Mĩ. Với việc tôn vinh, đề cao vẻ đẹp anh hùng cách mạng ở hai nhân vật này, tác giả đã góp phần tạo nên giá trị anh hùng ca cao đẹp cho văn học cách mạng 45- 75.
Câu 3 b:
a, Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích:
- Tác giả: nhà thơ, nhà viết kịch tài ba; đóng góp cho sân khấu nước nhà nhiều vở kịch xuất sắc.
- Tác phẩm:
+ Được viết từ 1981, đến 1984 mới ra mắt độc giả.
+ Khai thác, sáng tạo cốt truyện dân gian để gữi gắm những suy ngẫm về nhân sinh về hạnh phúc, kết hợp phê phán một số tiêu cực trong lối sống hiện thời.
- Đoạn trích:
+ Một phần của cảnh 7- Cảnh cuối cùng của vở kịch.
+ Đoạn trích được học gây ấn tượng sâu sắc nhất về bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba.
b, Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba:
* Hoàn cảnh nảy sinh bi kịch:
- Do thái độ làm việc tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu Trương Ba bị chết bất ngờ.
- Được Tiên Đế Thích cho Hồn Trương Ba sống lại bằng cách nhập vào thân xác anh hàng thịt. Thế là Hồn Trương Ba vẫn giữ nguyên vẹn nhưng trú ngự trong xác anh hàng thịt
Vay mượn thân xác người khác để sống, để tồn tại.

* Bi kịch trớ trêu, bất hạnh:
- Hồn đối thoại với xác (DC): Xác giễu cợt, đắc ý, lấn lướt; Hồn đau đớn, lúng túng, dằn vặt, bế tắc.
- Mọi người trong gia đình:
+ Vợ chán chường, xa lánh (DC).
+ Cháu nội cự tuyệt (DC).
+ Con dâu thương hại, bối rối (DC)
tục, thô lỗ.
- Thắp hương gọi Đế Thích để xin giải thoát vì sự vênh lệch quá lớn giữa hồn và xác:
+ Phép thử: Đế Thích cho Hồn Trương Ba sống lại bằng cách nhập vào xác cu Tị.
+ Hồn Trương Ba từ chối= là kết quả của những trải nghiệm, thấm thía từ một đoạn đời bi hài hồn này, xác nọ. Trương Ba không muốn lặp lại bi kịch của chính mình.
+ Trương Ba chấp nhận cái chết vĩnh viễn. Chết nhưng lại được sống; sống bất tử trong lòng của những người thân; trong sự hoá thân vào cuộc sống xung quanh.(DC).
c, Trình bày cảm nghĩ:
- Thương cảm, thông cảm, đồng cảm với bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba. Muốn được sống lại cuộc sống tốt đẹp nhưng không có sự thống nhất giữa thể xác và linh hồn nên cuộc sống không trọn vẹn, vô nghĩa. Đó là nguy cơ đẩy con người đến chỗ tha hoá vì danh và lợi.
- Đồng tình, trân trọng, cảm phục trước sự lựa chọn, trước lẽ sống của nhân vật Hồn Trương Ba:
“ Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẽo được. Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”.
“ Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông không cần biết”.
+ Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác.
+ Sống thực cho ra con người quả thật không dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gữi, sống chắp vá không được là mình thì cuộc sống đó thật vô nghĩa.
>> Lựa chọn nhân hậu, sáng suốt giàu lòng tự trọng. Đó là con người ý thức được ý nghĩa của sự sống.
- Cần phê phán, đấu tranh với những hiện tượng đáng buồn, tiêu cực trong xã hội; Xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, trong sáng, lành mạnh để con người được sống chân thực; Sống đúng ý nghĩa sự sống.
d, Kết luận:
- Qua bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ gợi những suy tư sâu sắc về hiện thực cuộc sống; có ý nghĩa nhắc nhở người đời về lẽ sống, cách sống.
- Bài học cho riêng em.
-------------------------------------------------------------------------
Loans: Loans -Loans Studensin USA,Loans Cars in USA,Loans All
Loans Studensin USA,Loans Cars in USA,Loans All
Click here