Trong điều kiện
CNTB, đó là giai cấp của những người không có tư liệu sản xuất, họ phải làm
thuê, bán sức lao động cho giai cấp tư sản và do đó, họ bị giai cấp tư sản bóc
lột giá trị thặng dư. Trong điều kiện XHCN, đó là giai cấp của những người cùng
với nhân dân lao động làm chủ các tư liệu sản xuất chủ yếu, do đó, họ có quyền
làm chủ trong sản xuất, phân phối của cải vật chất, làm chủ xã hội.
- Sứ mệnh lịch
sử của giai cấp vô sản do Mác chỉ ra là có khả năng xoá bỏ CNTB và mọi nguồn
gốc sinh ra áp bức, bất công, có khả năng xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN và
CSCN. Trong đó quan hệ mới về tư liệu sản xuất được từng bước xác lập cho phù
hợp với tính chất, trình độ xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất mà
giai cấp công nhân làm đại diện.
- Sứ mệnh này
không phải do ông Mác áp đặt cho giai cấp vô sản và cũng không phải giai cấp vô
sản tự nhận cho mình. Đây không phải do ý muốn chủ quan mà sứ mệnh này do địa
vị kinh tế xã hội của giai cấp vô sản trong CNTB quy định. Giai cấp vô sản là
sản phẩm của nền đại công nghiệp, là bộ phận quan trọng nhất trong các bộ phận
cấu thành lực lượng sản xuất của XHTB. CN này phát triển, giai cấp vô sản càng
lớn mạnh về số lượng và chất lượng. Nhưng họ bị bóc lột hết tư liệu sản xuất,
phải bán sức lao động của mình cho các nhà TB để kiếm sống. Sức lao động ấy khi
đã trở thành hàng hoá thì giá cả của nó lại phụ thuộc vào cung, cầu trên thị
trường cạnh tranh của CNTB. Trong quá trình tích luỹ TB, giai cấp tư sản đẩy
mạnh phát triển CN làm cho giai cấp vô sản ngày càng nhiều. Khi đó cung lớn hơn
cầu, giai cấp tư sản lại càng bóc lột hơn và giai cấp vô sản càng bị áp bức
nặng nề hơn.
Do đó mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và tư sản ngày càng diễn ra gay gắt không thể điều hoà
được. Trong đó giai cấp vô sản là người đại diện cho lực lượng sản xuất tiến
bộ, ngày càng xã hội hóa cao, làm ra tuyệt đại bộ phận của cải cho xã hội. Còn
giai cấp tư sản là người đại diện cho quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất lạc hậu, lỗi thời, kìm hãm sự phát triển và lực lượng sản xuất.
xã hội đòi hỏi phải phá vỡ quan hệ sản xuất lạc hậu lỗi thời đó. Theo quy luật
đấu tranh giai cấp từ xưa đến nay, giai cấp nào đại diện cho lực lượng sản xuất
tiến bộ thì giai cấp đó có khả năng xoá bỏ chế độ xã hội cũ, thiết đặt xã hội
mới văn minh và tiến bộ hơn. Do đó ngày nay giai cấp vô sản là người đại diện
cho lực lượng sản xuất tiến bộ tất yếu với khả năng xoá bỏ CNTB, xây dựng xã
hội mới - xã hội CHCN và XHCS.
Bên cạnh địa vị KTXH, giai cấp công nhân còn có những đặc
điểm chính trị - xã hội phù hợp đảm bảo hoàn thành sứ mệnh của mình. Đó là:
Giai cấp công
nhân là giai cấp tiên tiến nhất, đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ ngày
càng xã hội hoá cao. Họ sống tập trung, chủ yếu sống ở đô thị có điều kiện
thuận lợi nâng cao dân trí về mọi mặt. Do đó dễ nhạy bén tiếp thu được những lý
luận CM để lãnh đạo phong trào đấu tranh chống giai cấp tư sản. Lợi ích, mục
đích đấu tranh của họ phù hợp với nguyện vọng của quần chúng, được quần chúng
ủng hộ. Do đó giai cấp công nhân có đủ điều kiện, khả năng trở thành lực lượng
tổ chức, lãnh đạo các giai cấp và tầng lớp khác trong cuộc đấu tranh xoá bỏ
CNTB.
Giai cấp công
nhân là giai cấp có tinh thần CM triệt để vì dưới chế độ CNTB, giai cấp công
nhân bị tước hết mọi tư liệu sản xuất và do đó bị áp bức bóc lột nặng nề. Muốn
tự giải phóng, họ phải lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản đồng thời tiến
hành cuộc đấu tranh giải phóng toàn xã hội. Cho nên họ đấu tranh toàn diện, đấu
tranh sâu sắc, triệt để trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hơn thế nữa,
giai cấp công nhân còn được vũ trang bởi hệ tư trong tiên tiến là học thuyết
Mác- Lênin và được Đảng CS lãnh đạo.
Giai cấp công
nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao nhất vì họ được tôi luyện qua
điều kiện sản xuất tập trung, trình độ KT hiện đại, cơ cấu tổ chức chặt
chẽ...của nền đại công nghiệp. Nhờ có ý thức này mà trong đấu tranh chống giai
cấp tư sản - kẻ thù lớn mạnh gấp nhiều lần, giai cấp công nhân đã biết sử dụng
ý thức kỷ luật cao để lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh.
Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế vì
giai cấp công nhân ở các nước đều có chung một địa vị KTXH: họ đều là những
người bị áp bức bóc lột nên có cùng tư tưởng đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Trong đấu tranh, giai cấp công nhân bao giờ cũng đặt lợi ích dân tộc gắn liền
với lợi ích quốc tế.